Mai Thục
Trong hành trình tìm về cội rễ Việt, tiếp sức cho con người Việt Nam hiện đại, chúng ta luôn tỉnh thức để gạt ra những hủ tục bất công ăn sâu nơi đời sống cộng đồng.
Cuốn sách Những hủ tục bất công trong vòng đời người phụ nữ Việt Nam (NXB Thanh Niên-2010) của giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết, nhà nhân học xã hội, đóng góp tiếng nói quan trọng, nhằm giải phóng phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Sách gồm bốn chương.
Chương I: Phẩm chất cao quí của phụ nữ Việt Nam. Người lao động, người mẹ, người vợ, người yêu, người chiến sĩ dũng cảm, người nghệ sĩ và nhà chính trị.
Chương II: Những khác biệt nam nữ về sinh học.
Chương III: Những bất công qua các giai đoạn cuộc đời người phụ nữ với những tư liệu, số liệu thống kê. Do những rào cản về nhận thức và hành động phân biệt đối xử, khiến phụ nữ trở thành nhóm yếu thế, một bộ phận bị gạt ra bên lề của sự phát triển trong cuộc sống xã hội hiện nay.
Chương IV: Các phong tục tập quán thuộc mọi lĩnh vực đời sống và gia đình hạ thấp nhân phẩm người phụ nữ. Đây là một chương viết hay và quan trọng. Tác giả sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu vòng đời “từ nôi đến mộ” để xem xét các phong tục tập quán lạc hậu đã ảnh hưởng đến cuộc sống của người phụ nữ từ quá khứ đến hiện đại.
PGS. TS Hoàng Bá Thịnh nhận xét: “Với những trang tư liệu điền dã của tác giả suốt cuộc đời nghiên cứu trên nhiều vùng quê khác nhau, người đọc như được xem một cuốn phim với những cảnh, tình tiết, cung bậc khác nhau trên một nền nhạc buồn, về những hủ tục tập quán lạc hậu đã và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại. Tư tưởng trọng nam khinh nữ là sợi chỉ xuyên suốt trong các phong tục, tập quán lạc hậu. Cuốn sách minh chứng cho ý tưởng của các nhà kinh điển Mác xít đại ý: Người chết đang níu áo những người sống…”
Giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết viết Lời tác giả: “Những hủ tục đang tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại Việt nam với những hiện tượng phản văn hóa, phản khoa học, phản giáo dục, phi nhân bản, cho đến nay vẫn đang đè nặng, đang níu chặt lấy phụ nữ. Chúng tôi miêu tả dân tộc học các hủ tục làm cơ sở cho việc phê phán, phản biện, nhằm xóa bỏ những gì đang bất công với phụ nữ và cản trở bước tiến của xã hội Việt Nam. Nhằm giải phóng phụ nữ ra khỏi hủ tục, bảo vệ quyền con người của họ”.
Còn tôi, bất ngờ bởi cách viết của GS Lê Thị Nhâm Tuyết sinh động và sâu sắc như một tác phẩm văn chương.
Về truyền thống phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, tác giả chỉ dẫn mấy câu trong bái phú “Nữ nhi cũng có một ngày bồng tang” của bà Trần Thị Phúc (kêu gọi phụ nữ chống thực dân Pháp) là quá đủ:
“Này nước, này non, này nhà, này cửa đã có bà đây, còn chờ ai nữa… Sánh những Bà Trưng thuở Hán, Hán thua. Kém chi Bà Triệu ngày xưa đuổi Ngô, Ngô cút… Bà đây, yêu nước, yêu nhà, cương thường một cột…” (Sđd trang 23)
Một trong những phẩm chất quan trọng hàng đầu của phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước là Bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc. Họ đã sáng tạo văn hóa và truyền cho con cháu từ hành động đến lời ru, dạy con làm người:
“Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười”
Chưa kể những nghệ sĩ lớn như: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Lê Ngọc Hân, Huyền Trân công chúa… đã sáng tạo và truyền một dòng năng lượng văn hóa dân tộc, nặng Tình Mẹ Việt Nam.
Đặc biệt, chương IV, tác giả dẫn ta đi ngóc ngách các vùng miền dân tộc, hang cũng ngõ tối, rừng rậm, khe sâu… chứng kiến những hủ tục đang đè chặt thân hình phụ nữ từ lúc lọt lòng đến khi xuống mộ.
I . Giai đoạn chào đời:
Bé gái đã bị tục lệ nhốt gà làm nhục. Nhốt gà chờ vợ để con trai ăn mừng, đẻ con gái thì “bung cả đàn gà táo tác chạy vào rừng”. Đồng bằng Bắc bộ có “Lễ trao phần trai”. Sinh con trai là niềm vui của cả dòng họ: “Đinh tài hương vượng”, “Đinh đa gia thịnh” …
Hầu hết các dân tộc đều có tục “Ở rể đời”. Nhà nào không có con trai, nhà gái lấy rể về thờ cúng tổ tiên và được thừa kế gia sản của bố mẹ vợ.
Gia phả không ghi con gái “nữ nhân ngoại tộc”.
II. Tuổi trưởng thành:
Con gái được giao phó cai quản việc nhà, xó bếp và coi đó là chức phận cả cuộc đời:
Con gái rửa bát quét nhà, trông em, thổi cơm, nấu nước, tưới rau. Con trai không phải làm những “việc vặt” đó. Người Thái mẹ dạy con gái 9 tuổi, nhặt bông kéo sợi, dệt vải thêu khăn, dạy nấu các món ăn truyền thống. Nếu họ dạy luôn cả con trai những việc trên thì quá tốt. Nhưng con trai được trao sứ mệnh cao cả “Đọc sách ngâm thơ”, được đi học chữ. Con gái “Học chữ để viết thư cho giai”, nên không được đi học.
Các dân tộc Việt đều cho rằng trong xã hội, người con trai là chuẩn mực. Trong gia đình, con trai là trụ cột. Bố mẹ già sẽ ở với con trai. Con gái lấy chồng về nhà chồng, phục vụ nhà chồng, không nên cho đi học. Phí công tốn của.
Trong gia đình, họ giáo huấn: “Nam ngoại, nữ nội” “Nam nữ hữu biệt”, “Nam nữ bất đồng tịch”. Vị trí người phụ nữ là “Tam tòng tứ đức”, “Gái chính chuyên chỉ một chồng”, “Trai năm bảy vợ”…
Con gái được coi như nguồn lợi nhuận lao động:
“Ruộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng”.
Những tục kiêng kỵ, đẩy người phụ nữ vào cảnh giới bị khinh rẻ thường trực:
Kỳ kinh nguyệt không được xuống sông suối bắt cá, tắm giặt làm dơ bẩn đến các vị thần Hà Bá, Long Vương, Thuồng Luồng…
Sớm Mồng Một Tết Nguyên Đán, kiêng kỵ đàn bà con gái đến xông nhà, xông đất.
Ra ngõ kiêng gặp gái. Vía đàn bà xấu, mọi người đều tránh. Nó ăn sâu bám rễ vào đời sống hôm nay, đến mức chính người đàn bà ra ngõ đi xa, cũng tránh gặp người đầu tiên là đàn bà.
Đàn ông ăn cỗ, tiếp khách mâm trên, đàn bà con gái ăn ở bếp.
Tục bán con. Không bán con trai, bán gái đóng sưu. Cho cưới non. Cô dâu về lao động làm giàu cho nhà chồng. Đan Phượng- Hà Tây cũ cô Mực 10 tuổi bị đem bán về nhà cậu Trai 6 tuổi. 19 tuổi cô bị ruồng rẫy. Cậu Trai muốn cưới vợ khác. Cô Mực bỏ về nhà mẹ đẻ, phải trả lại 40 đồng (theo tục trả của) để được đi lấy chồng khác, sau chín năm đi ở không công. Hiện nay cô Mực gần sáu mươi tuổi. Lão Trai đã lấy ba vợ.
Tục tảo hôn. Tảo hôn giống tục bán con gái vì nghèo túng, nợ nần, tham giàu, tâm lý hư danh, đua đòi, mê tín…
Cha mẹ đính ước cho con khi còn trong bụng mẹ. Cảnh tảo hôn diễn ra đối chọi. Con gái bé lấy con trai bé. Con gái lớn lấy con trai bé. Con gái bé lấy đàn ông nhiều tuổi…
Làng Phương Bảng Hoài Đức- Hà Tây cũ là nơi tục tảo hôn khá nặng. Chú bé Đỗ Văn Cuộc 13 tuổi đã hai đời vợ (dĩ nhiên là còn tiếp diễn). Năm 1962 học lớp ba, gia đình cưới cô vợ 15 tuổi (UBND và Hội phụ nữ đã can thiệp, vận đọng hủy cuộc hôn nhân này nhưng gia đình vẫn cứ “cưới trộm”. Năm 1966, vợ Cuộc bỏ cậu đi lấy chồng. Gia đình lại “cưới trộm” cho Cuộc một cô vợ khác 18 tuổi. Cuộc 13 tuổi học lớp 5. Năm 1967, vợ này lại bỏ Cuộc đi khai hoang. Nguyên do chuyện này là nhà Cuộc thuộc loại khá giả, hiếm con, mẹ đi xem bói, phải lấy vợ cho Cuộc để khỏi bị chết non.
Làng Hạ Hội (Đan Phượng- Hà Tây cũ) có tục “gửi tã”
Dạm hỏi con từ lúc bé tý xíu. “Gả chồng bé coi như đắt chồng, lấy con dâu bé là nhà khá giả”. Tục lệ đã biến cô gái tuổi Thiên Thần thành món hàng đổi trao, mua bán theo lợi ích cả người đàn ông gia trưởng.
Tục giấu nghề truyền thống đối với con gái. Gia chủ phải giấu con gái mình những bài thuốc quí, trị bệnh cứu người và giấu cả việc chế biến thức ăn. Con gái biết nghề sẽ mang về nhà chồng.
Làng cốm Vòng Hà Nội nổi tiếng vì làm cốm ngon, nhưng các cô gái không được dạy làm cốm, chỉ được giao cốm đem bán gánh dưới chiếc đòn gánh uốn cong móc câu hai đầu mà thôi.
Con gái bị coi là không có quyền hưởng tài sản thừa kế. Tuy nhiên bố mẹ cho phép cô được tích lũy vốn riêng. Ngoài việc lo việc ruộng nương, bếp núc, cô phải tự trồng bông dệt vải, may thêu khăn túi, váy áo, nuôi lợn gà tích lũy làm của hồi môn đi lấy chồng.
Con gái chỉ là người sống tạm ở nhà bố mẹ đẻ, nên không có chỗ ngủ nhất định, chẳng có buồng riêng như các anh em trai. Cô ngủ trên sàn nhà, ở phần trái nhà, khoảng giữa buồng của bố mẹ và buồng của con trai thứ, hoặc ở gian đầu, ở nửa dưới cạnh bếp.
Dân tộc ve, trong làng những thành viên nam 18 tuổi trở lên (đã trở thành chiến binh) mới được phép biết nơi cất và tham dự các buổi lễ liên quan đến vật thiêng của cộng đồng. Phụ nữ không được phép biết vì có thể đi lấy chồng làng khác. Họ sẽ tiết lộ bí mật của làng.
III. Giai đoạn lấy chồng:
Mục đích hôn nhân xưa là vì lợi ích gia đình. Người ta tìm kiếm về nhà mình người con gái có khả năng sinh sôi nảy nở để tạo ra những người thừa kế tài sản mới. “Lấy vợ kén tông, lấy chồng xem giống”.
Bởi thế nhiều tục lệ hà khắc buộc vào cô gái chưa chồng. Những cô chửa hoang thì “gọt đầu bôi vôi”, “Thả bè trôi sông”. Làng làm rùm beng, phạt vạ. Người Dao đưa con gái chửa hoang đến một vùng rừng riêng ngoài làng đến sau khi đẻ…
Làng Thị Cầu Bắc Ninh có tục thi cỗ do em gái làm cho anh đi thi. Anh nào được giải, người ta tìm đến hỏi cô em gái về làm dâu.
Dịp Tết, tục thổi cơm thi cũng để tìm các cô gái đảm. Bởi vậy, muốn con gái đắt chồng, các bà mẹ phải dạy con thêu thùa may vá, thổi cơm ngay từ khi 9 tuổi…
Tiêu chuẩn kén dâu do các cụ chọn. Về tinh thần phải đạt “tam tòng tứ đức”. Tam tòng là ở nhà con gái phải theo cha. Lấy chồng phải theo chồng. Chồng chết theo con trai. Tứ đức là “Công dung ngôn hạnh”.
Về hình thức phải có khả năng sinh con đẻ cái “lưng chữ gụ, vú chữ tâm” mắn đẻ.
Vì chọn mua, gả bán như vậy nên những nhà giàu lo cưới vợ chọn vợ rất sớm cho con trai, ép duyên, trai gái không có quyền lựa chọn nhau, xảy ra chuyện:
Buồn tình em bế thằng bé nó lên
Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì
Nó ngủ nó ngáy khì khì
Một giấc đến sáng còn gì là xuân
Những tiếng kêu tuyệt vọng của cô gái muộn chồng:
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên mở cửa gọi ông ăn mày
Tôi van ông ông rẽ vào đây
Giường chiếu sạch sẽ, gối mây ông nằm
Duyên tôi xưa đáng một trăm
Bây giờ ế ẩm xin ông năm hào
Dân tộc Hơ Mông có tục kéo vợ. Người con trai yêu cô gái, không cần biết cô có yêu mình không, rủ bạn trai đi bắt cô về nhà mình. Có trượng hợp cô gái bị kéo về để trừ nợ cho bố mẹ nghèo nợ nhà thống lý. Nhưng cô chỉ là vợ lẽ, người hầu.
Tính chất mua bán của hôn nhân thể hiện qua tục lệ đám cưới. Thách cưới cao, thu lại vật chất và biểu thị giá trị cô gái. Làng Cát Ngời Hoài Đức- Hà Tây cũ một nhà gả con thách cưới đơn giản bị làng chê “Không bằng bán một con chó giống”.
Thách cưới, người Thái, người Xinh Mun gọi là tiền trả công nuôi dưỡng bú mớm. Nhà trai phải trả cho nhà gái số tiền lớn, hàng trăm đồng bạc trắng.
Lễ nghi cưới các dân tộc đều phải lần lượt qua: lễ dạm hỏi, lễ mừng, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức, lễ lại gói.
Làng xóm nhân cơ hội đám cưới cũng tranh thủ vui vẻ bày các tục: “nộp tiền qua cầu”, “chăng dây giữa đường”, “tiền mở cổng” nhà cô dâu, “nộp cheo” cho làng, “nộp gạch lát đường”…
Thách cưới sinh khốn khổ cho nhà trai “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”. Làng Hạ Hội, Đan Hội, Hạnh Đàn, Ngọc Kiệu (Đan Phượng- Hà Tây cũ) có tục cưới chịu. Nhà gái thách cưới ba phần, nhà trai chỉ đưa đến một phần, còn thì xin chịu. Cô dâu không về ở nhà chồng ngay khi cưới, bao giờ trả đủ tiền mới về. Hôm cưới vẫn đón dâu, cô dâu ngủ lại nhà chồng một đêm, nhưng ngủ với bạn gái.
Phần lớn đám cưới phải mất ba ngày. Dựng rạp, đón dâu, đưa dâu, thu dọn. Gia chủ chuẩn bị sẵn đồ ăn, thức uống, giao phó cho người đến giúp. Cỗ bàn bày la liệt. Dân làng, khách xa đến ăn tưng bừng. Có người sáng ăn, đi làm đồng về lại ăn, tối ăn, đám cưới bốn trăm mâm cỗ và không biết bao nhiêu công sức mọi người. Năm 1972, một đám cưới ở làng Kem xã Việt Yên đã ăn hết một con bò, 13 con lợn, 20 nồi gạo, 200 kg mì gạo, 200 kg đậu phụ, 200 lít rượu, 10 kg thuốc lá sợi và hàng chục tút thuốc bao, đốt hàng trăm bánh pháo, chè lạng, chè gói nhiều vô kể.
Hậu quả khi đám cưới mua bán đã xong, cô dâu thành con người ta. Người chủ nhà tận dụng con dâu làm giàu cho mình. Người cô dâu phải chịu trận là mẹ chồng:
“Tuổi em hai tám tuổi đầu
Cha mẹ đã định làm dâu nhà người
Nói ra sợ chúng bạn cười
Năm ba trận chửi, chín mười trận đay
Việc làm chẳng kịp trở tay
Mẹ chồng mắng mỏ, la rầy gay go
Cơm ăn trong bụng chẳng no
Tấm quần, tấm áo không cho mặc lành
Đêm thì thức đủ năm canh
Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò”
Người đáng sợ thứ hai là em gái chồng. “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”.
“Em chồng ở với chị dâu
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày”
Dù rơi vào thảm cảnh, con gái đã về làm dâu nhà người, thì phải theo họ. Sống làm người nhà chồng. Chết làm ma nhà chồng. Cô dâu không được về nhà mình. Người chồng yêu vợ lắm thì dặn:
Từ khi em về làm dâu
Thì anh dặn bảo trước sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha
Phong tục người La Chí không cho phép con dâu bước vào gian đặt bàn thờ của bố mẹ, nơi ngủ của bố mẹ. Người La Hủ không cho phép con dâu chải tóc trước mặt bố chồng, anh chồng. Người Dao Quần Chẹt không cho bố chồng, anh chồng, con dâu ăn cùng mâm…
Chế độ đa thê dày đạp thân phận phụ nữ “Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”. Luật nhà Lê thừa nhận chồng lấy nhiều vợ. Tuy vậy khi người chồng bị bệnh bất lực, hai vợ chồng bàn nhau mời một bạn quen tốt giống “giúp đỡ” vợ mình. Họ giữ kín nhưng phải kính báo gia tiên, có con thì lễ tạ.
Không thể chịu nổi cuộc sống nghiệt ngã ở nhà chồng. Cô dâu chỉ còn cách trở về nhà mẹ đẻ. Nhưng họ gặp thành kiến nặng nề “Nứa trôi sông, gái bỏ chồng”. Cha mẹ vợ chịu tiếng đau đớn, tìm mọi cách đuổi con về nhà chồng để yên chuyện.
Xã Mai Phong ( Hiệp Hòa- Bắc Ninh), ông Thể có con là Ngọ, gả chồng năm 11 tuổi. Lớn lên, Ngọ chê chồng, nhiều lần bỏ về nhà mẹ đẻ, nhưng đều bị xua về nhà chồng.
Nửa đêm ngày Mồng Một Tết, Ngọ trốn lên Thái Nguyên. Ông Thể tìm bắt được con mang về. Lập bàn thờ giữa sân, mài con dao thật sắc, ông Thể mời thông gia và rể tới, gọi con gái ra, chỉ vào mặt nói: “Con này tôi gả bán cho nhà người rồi, nếu nó không nghe mà cưỡng lại, nếu tôi không dạy được nó, thì đây, có tổ tiên chứng giám, từ nay tôi không có đứa con bất hiếu này nữa, tôi chém chết nó, rồi lập tức cưới cho rể tôi một vợ khác.”
Tuy nhiên cũng có cha mẹ thương con gái rứt ruột của mình, ôm nó vào lòng, cứu nó thoát khỏi địa ngục trần gian. Song họ bị tục trả của vì đã thách cưới quá nhiều. Ngoài ra thủ tục ly hôn phức tạp, kéo dài, cũng gây hậu quả đáng buồn.
Cô dâu chê chồng còn bị lệ làng vây bủa. Làng Phương Bảng (Hoài Đức- Hà Tây cũ) và nhiều nơi có “Hội Chiêm”. Vào đêm rằm tháng Tám có lệ làng lùng bắt các cô dâu chê chồng. Tuần phiên và trai làng tổ chức lùng sục nhà mẹ đẻ các cô. Có người rúc vào đống rơm, đống rạ cũng bị lôi ra. Có người nằm ép vào hòm, bị khiêng cả hòm đi. Họ lục vào các nhà, sục vào buồng, nhìn các xó xỉnh, chui vào gầm giường, trèo lên cót thóc bắt các cô điệu về nhà chồng. Vừa đi họ vừa cấu chí, đánh đấm đạp.
Các cô bị quẳng về nhà chồng, van lạy họ không tha. Nếu nhà chồng nhận lại thì xong, gặp bà mẹ chồng ác nghiệt trả lời: “Chúng tôi không dám” thì các cô bị giong về nhà mẹ đẻ, bị cấu xé nhục nhã. Gọi là “Hội Chiêm” vì người xem chen nhau đông như hội, kéo dài từ mùa trăng tháng Tám đến khi nào lùng hết, hỏi tội, trói bắt, đánh roi mây hết lượt các cô chê chồng mới chấm dứt.
Nếu hai vợ chồng chưa có con thì của cải tính theo nguyên tắc “Trai chê trai bỏ, gái chê gái đền”. Con gái chê chồng, nhà trai bắt đền nhà gái lễ seo, lễ Tết. Cha mẹ chứa con gái lộn chồng bị xã hội lên án. Cô gái không được coi là thành viên của gia đình, phải ở riêng, chết không được chôn trong bãi mộ chung của làng.
IV. Phong tục tập quán khi làm mẹ:
Vượt cửa ải quan hệ với nhà chồng, cô dâu làm mẹ. “Gái một con trông mòn con mắt”. Nhưng nàng đẻ liên tục nên:
“Gái hai con vú sệ ngang lưng
Ba con cổ ngẵng răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con yếm trụt váy dù vận ngang”
Mang thai, người mẹ phải kiêng cữ ngặt nghèo. Không được bước qua trạc buộc trâu bò. Không ngồi lệch. Không giết gà. Ăn kiêng ốc, hến, thịt thỏ, thịt ngỗng, cá…
Sinh nở nàng bị kiêng cấm nhiều hơn. Làm lều ra vườn đẻ, hoặc kín trong buồng tối. Nằm trên than củi đốt để trừ tà. Chỉ ăn cơm muối nướng. Cách ly mọi người sợ vía xấu…
V. Phong tục tập quán khi người phụ nữ trung niên và cao tuổi:
Khi chồng chết, vợ thờ ba năm mới tái giá. Trước khi tái giá phải lễ tạ chồng cũ, khấn phù hộ. Nếu cha mẹ chồng vẫn còn thì phải đem trầu rượu đến lạy tạ và xin phép được đi bước nữa. Khi tái giá không được mang bất kỳ tài sản gì của nhà chồng. Con cái phải để lại nhà chồng.
Các dân tộc thiểu số có tục nối dây. Chồng chết vợ có thể lấy một trong số anh em của chồng. Ngược lại vợ chết chồng có thể lấy em gái vợ.
Tục lệ gái góa lấy chồng gặp nhiều rắc rối hơn đàn ông góa lấy vợ, làm cho người nữ góa rất ít cơ hội lấy chồng mới.
Người phụ nữ cao tuổi bị gạt ra khỏi các lệ làng chỉ dọn dẹp mua sắm chạy lăng xăng. Thọ hưởng cỗ cúng là nam lão. Trong gia đình đàn ông được cúng tế và quyết định việc nhà. Quyền thừa kế tài sản thuộc các con trai. Đàn bà cao tuổi được kính trọng nhưng không có quyền gì.
VI. Kết luận:
Khẳng định nền văn hóa Việt Nam chứa đựng đậm đà bản tính nhân đạo, nhân ái. “Thương người như thể thương thân”. Không lẽ lại để các hủ tục trên trở thành xiềng xích, giam cầm, kìm hãm, thậm chí giết hại (bằng cả nghĩa đen của từ này) người phụ nữ và truyền thống nhân văn đó. Do vậy tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết nhấn mạnh:
“Cần quét sạch ảnh hưởng tàn dư của chủ nghĩa chuyên chế về mặt văn hóa- chính trị tư tưởng trong quan hệ người với người ảnh hưởng đạo tam cương, ngũ thường đã chi phối người phụ nữ “Vua- cha- chồng”. Vua là giềng mối của bề tôi thì bề tôi phụ thuộc vào vua mà không có nhân cách độc lập tự chủ. Chồng là giềng mối của vợ thì vợ phụ thuộc vào chồng mà không có nhân cách độc lập tự chủ… đúng là “Trai gái dưới gầm trời này làm tôi, làm con, làm vợ, không ai độc lập tự chủ!”(Sđd tr. 137)
Tác giả kêu gọi chân thành thống thiết:
“Chẳng lẽ đến nay, xã hội Việt Nam và văn hóa nhân loại lại tiếp thu hoàn toàn bị động những hủ tục tồn tại từ ngày xưa, thống trị con người từ nôi sinh đến mộ mãi sao? Chẳng nhẽ cứ để quan niệm sai lầm và lỗi thời là các hủ tục cứ tồn tại, đóng vai trò xiềng xích trong nếp sống, lối sống, trong tâm lý của gần như mọi tầng lớp xã hội? Chẳng lẽ cứ để các hủ tục hạ thấp phụ nữ, những hủ tục tác hại đến sức khỏe vật chất và tinh thần của phụ nữ, gây kìm hãm tất cả mọi chính sách về phát triển kinh tế xã hội của đất nước sao?
Phải công bằng giới. Muốn nói đến công bằng giới phải công bằng xã hội. Công bằng xã hội là một phạm trù nhân quyền. Một quyền cơ bản với mọi con người, mọi công dân.
Công bằng xã hội mang nguyên tắc bảo đảm để mọi người được cống hiến cho xã hội và đồng thời bảo đảm để họ được nhận lại, được hưởng thụ đúng và tương xứng với những gì mà họ đã cống hiến.
Công bằng Giới. Giới là thuật ngữ mang tính xã hội, đề cập đến sự khác biệt giữa nam và nữ do xã hội qui định. Còn giới tính là một thuật ngữ sinh học, đề cập đến khác biệt sinh lý giữa nam và nữ. Nó không thể thay đổi.
Mối quan hệ giới bình đẳng hoặc Công bằng giới là mối quan hệ vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội.
Bình đẳng giới được xác định là phụ nữ và nam giới phải có vị trí ngang nhau trong xã hội, được có quyền ngang nhau, hưởng thụ bằng nhau trong xã hội.
Công bằng giới là phụ nữ và nam giới phải được đối xử công bằng trong sự nhìn nhận khác biệt giữa nam và nữ”.
(Sđd tr.140).
Là người quan tâm nghiên cứu về phong tục tập quán từ rất sớm, G.S Lê Thị Nhâm Tuyết đã đặc biệt chú ý đến những tập tục lạc hậu liên quan đến phụ nữ, những người vốn chịu nhiều thiệt thòi, bất công trong gia đình và ngoài xã hội. Cuốn sách Những hủ tục bất công trong vòng đời người phụ nữ Việt Nam là một đóng góp lớn của G.S Lê Thị Nhâm Tuyết- nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu về phụ nữ, nghiên cứu về giới suốt nửa thế kỷ qua.
Hà Nội- Tháng 1-2010
Những hủ tục bất công trong vòng đời người phụ nữ Việt Nam